Đất tử sa là gì?
“Tử sa” là một từ dùng chung để nói về một loại đất chỉ có duy nhất tại Đinh Thục Trấn huyện Nghi Hưng tỉnh Giang Tô của Trung Quốc, cho đến thời điểm hiện tại người ta chưa tìm được nơi nào khác có nguồn đất có thành phần hoá học giống như đất Tử sa tại Đinh Thục Trấn.
Bản chất của nó là đất bùn sét có hàm lượng sắt cao, thường nằm kẹp trong những tầng đất sét thông thường khác, nhưng chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Trong sản lượng khoảng 20 ngàn tấn đất sét được khai thác mỗi năm, thì Tử Sa chỉ chiếm khoảng 2% và ngày càng ít đi.
Đất tử sa sau khi khai thác về sẽ được phân loại, rồi nghiền nhuyễn, trộn với nước, ủ trong lu ít nhất 1 năm để lắng lọc và phân hủy các thành phần hữu cơ, sau đó được đóng thành khối và lưu trữ.
Tử sa là một loại đất hết sức đặc biệt bản thân nó có thể tự cấu thành sản phẩm sau khi nung và nó có thể tự giữ hình dáng khi nung đến 1200 – 1300 độ C, mà không cần phải pha trộn thêm cao lanh hoặc các loại khoáng chất khác vào. Sau khi nung xong bề mặt tử sa tuy láng mịn nhưng nếu nhìn dưới kính phóng đại sẽ thấy nhiều khe rãnh nhỏ, những khe rãnh này được gọi là khí khổng. Chính sự hình thành các khí khổng này sau khi nung xong đã tạo cho đất Tử sa một đặc tính vô cùng hiếm có, tuy láng mịn cứng chắc nhưng có độ xốp và thông thoáng nhất định.
Phân loại đất tử sa
Đất Tử sa hiện tại được phân chia thành 4 nhóm chính: Tử nê, Hồng nê, Lục nê, Đoạn nê, Giáng ba nê.
Vùng đất Nghi Hưng có tài nguyên đất gốm phong phú, nơi đây thường chia thành ba nhóm lớn: Bạch nê, Giáp nê, Nộn nê. Tử Nê là tầng đất kẹp giữa của tầng Giáp Nê. Trong đó, Tử nê là tầng đầu trong tầng khoáng Giáp nê, sản lượng khá lớn. Lục Nê cũng nằm trong tầng trên của tầng khoáng Tử Sa. Do số lượng Lục Nê không nhiều, cũng không thích hợp cho việc chế tác các tác phẩm lớn, nên số lượng ấm và đồ Tử sa làm thuần từ Lục Nê rất ít. Đoàn Sơn Nê (hay Đoạn Nê) là nguyên liệu do Tử Nê và Lục nê hỗn tạp cộng sinh mà thành, có thể chế tác các tác phẩm lớn. Hồng Nê thì nằm ở phần đáy tầng khoáng.
1. Nhóm đất Tử nê
Tử nê được biết đến và nhận dạng qua bề ngoài màu đỏ tím đến tím, đồng thời có các đốm kết tinh mica màu xanh nhạt. Tử nê sau khi nung có màu tím, nâu tím. Nhiệt độ chịu nung của nó nằm trong khoảng 1180°C, độ co ngót so với ban đầu khoảng 10-11%.
Trong Tử nê được chia làm 3 loại là: Đế Tào Thanh, Thanh Thủy Nê và Lão Tử Nê.
1.1. Đế Tào Thanh
Đế Tào Thanh là một loại đất thuộc nhóm Tử Nê. Loại Đế Tào Thanh gốc có màu tím hồng, trong màu tím có ánh hồng, tồn tại dưới dạng khối chắc, chất đất rắn, đa phần mặt cắt có những đốm “mắt gà” hoặc “mắt mèo” màu xanh xám, đây là đặc điểm nổi trội đặc trưng nhất của loại khoáng này.
Những mắt gà này thực chất là đất bản sơn lục nê. Sau khi được nghiền luyện thành bột và làm ấm, những đốm mắt gà trở thành những hạt màu vàng, hay còn được gọi là “kim sa ẩn hiện”.
Loại đất này có nhiệt độ thiêu kết cao, trong khoảng 1180 độ C, phạm vi nhiệt nung rộng, từ 1150 độ đến 1250 độ, tính ổn định tốt, tỷ lệ co ngót nhỏ, khoảng 12%.
Căn cứ vào tầng đất, có thể chia làm quặng già và quặng non, quặng càng già thì càng nhiều mắt gà, tính cát cũng gia tăng, đất khá xốp và khả năng chịu được nhiệt cao hơn các loại quặng non khác. Tác phẩm ấm làm từ loại đất này có cảm giác hạt mạnh mẽ, tính thấu khí tốt, cổ điển, nhã nhặn. Khi nung với nhiệt độ từ thấp đến cao, nó sẽ thể hiện ra các màu tím hồng, dần đến tím nâu, nâu, tím đen.
1.2. Thanh Thuỷ Nê
Khái niệm Thanh Thuỷ Nê là để gọi các loại đất nguyên khoáng đơn nhất không pha trộn thêm bất cứ các loại khoáng nào. Ví dụ, đế tào thanh cũng có thể coi là thanh thủy nê, lục nê cũng có thể coi là thanh thủy nê. Nếu hiểu theo nghĩa này, thì thanh thủy nê là khái niệm hay cách gọi mà nhấn mạnh vào phương pháp gia công, chế luyện đất, chứ không phải là chỉ cụ thể một loại đất nào.
Một khái niệm nữa của thanh thủy nê mà chúng ta cũng có thể hiểu rằng nó chỉ là 1 loại đất nằm trong nhóm tử nê là một loại quặng tử sa thuần với hàm lượng sắt và mica cao, người làm ấm tử sa ở Nghi Hưng cũng gọi là “phổ nê”. Loại đất này nung ra sẽ có nhiều sắc đỏ hơn tử nê bình thường, nhiệt độ nung của nó thường rơi vào khoảng từ 1150 – 1180 độ C, tỷ lệ co ngót là 12%, càng sử dụng càng tăng thêm sắc đỏ nhuận.
Do đó có thể kết luận lại Thanh Thủy Nê là loại đất mà có thể dựa theo phương pháp gia công hoặc đây là loại đất thuần và không có sự pha trộn với bất cứ chất liệu nào khác để nhận biết vào hiểu về nó.
1.2. Lão Tử Nê
Vì khả năng chịu nhiệt cao, tính ổn định khi nung tốt, tác phẩm sau nung có đặc tính gần với ấm tử nê thời Minh Thanh, rất cổ kính, nên gọi nó là “lão tử nê”. Đặc tính đất của lão tử nê rất ổn định, dễ nắm độ khô ướt, dễ tạo hình, làm được cả tác phẩm lớn và nhỏ, là một trong các loại đất được ưa chuộng và ứng dụng nhiều vào các sản phẩm ấm tử sa.
Có hàm lượng Al2O3 cao hơn tử nê thông thường, vì vậy loại tử nê này có phạm vi nhiệt nung rộng, tỷ lệ co ngót nhỏ, khoảng 8%, tính ổn định tốt, nhiệt độ nung phù hợp là 1190 độ.
Màu sắc sau nung chuyển đổi từ nâu đỏ sang tím đen, vì có thể nung ra màu tím đen nên có người gọi nó là “hắc tử nê”, dễ nhầm lẫn với Tử Gia Nê và Hắc Bính Tử Nê. Với tác phẩm làm từ lão tử nê, khi mới pha và sử dụng sẽ cảm thấy khô khan nhưng sau khi sử dụng 1 thời gian sau sẽ thấy thể hiện được phong vị của tử sa và là hương vị được nhiều người ưa chuộng sử dụng.
2. Hồng Nê
Hồng nê là loại đất có nhiệt độ chịu nung khoảng 1100°C và độ co ngót so với ban đầu khoảng 14%.
Khi khái quát về Hồng Nê người ta chỉ ra rằng có 3 địa điểm chính tồn tại loại đất này là Triệu Trang, Xuyên Phụ và Hoàng Long.
Hồng Nê Xuyên Phụ có độ co ngót lớn, nhiệt độ thiêu kết thấp và độ kết tinh cao. Hồng Nê Hoàng Long Sơn chịu được nhiệt cao nhưng màu sẽ không tươi và đẹp như đất Xuyên Phụ. Đất Hồng nê Hồng Vệ ở Tưởng Lạp hạt nhỏ, ít và mức độ phân tán lớn, tan được trong nước thành dung dịch sệt mịn, do đó khả năng tạo hình sẽ cao hơn so với Hồng Nê Hoàng Long Sơn.
Khả năng tạo hình cao của đất Hồng nê sẽ ảnh hưởng tới khả năng chịu vỗ đập khi tạo hình của đất (tức là đất có hạt mịn, dễ nắn, bóp, nặn kéo nhưng lại không chịu được vỗ đập nhiều khi tạo hình).
Do tính chất này mà Hồng Nê không thích hợp để làm các ấm có kích thước lớn. Đồng thời, do loại đất này dễ thiêu kết trong quá trình nung, ảnh hưởng tới tính thấu khí của nó, dẫn tới thời gian nuôi ấm sẽ kéo dài hơn so với những loại ấm Tử Sa khác.
2.1. Chu Nê
Chu Nê có kết cấu cát bột, rời rạc và nặng, tan trong nước. Hàm lượng Oxit sắt trong Chu Nê cao hơn Hồng Nê, nên ấm Chu Nê thường có màu sắc đậm đà hơn.
Nếu so với những loại tử sa khác, tỷ lệ co ngót khi để khô và nung của Chu Nê cao, Hồng Nê thường có độ co ngót 13%, độ co ngót tổng thể của Chu Nê hơn 17%, thậm chí đến 25%.
Sau khi được sản xuất ra thành ấm thành phẩm thì ấm có bề ngoài đẹp, độ kết tinh của chu nê cao, tiếng đanh như tiếng kim loại, bề mặt cắt của mảnh vỡ gần như đồ sứ (độ sứ hóa cao), vẫn có tính thấu khí nhất định. Sự thay đổi màu của ấm chu nê khi nhiệt độ thay nóng lạnh thay đổi đột ngột là rất rõ, khi có nước sôi, màu ấm sẽ đậm lên, càng hồng nhuận hơn, khi đổ nước nóng đi, ấm sẽ trở về màu cũ rất nhanh.
2.2. Đại Hồng Bào
Nguyên khoáng chu nê Hoàng Long Sơn, đập vụn, lọc ra quặng vàng, trắng, đen, đỏ. Lấy đỏ, gọi là Đại Hồng Bào, số lượng vô cùng ít. Vì vậy về bản chất Đại Hồng Bào chính là Chu nê Hoàng Long Sơn. Do có hàm lượng oxit sắt cao nên khi tiếp xúc với nước, ấm sẽ có màu ửng đỏ đậm hơn.
2.3. Chu Nê Tiểu Môi Diêu
Chu Nê Tiểu Môi Diêu là một loại đất Chu Nê có giá trị và quý hiếm. Do tỷ lệ co ngót lớn nằm trong khoảng 30% và hàm lượng bùn cao nên đất sau khi nung sẽ có bề mặt nhăn tự nhiên, tạo thành vân chảy trông độc đáo và rất đẹp mắt. Ngoài ra, khi nung thì chất đất này cũng rất dễ biến dạng nên tỷ lệ nung thành công khá thấp.
3. Lục Nê
Các chất trong lục nê gồm có hydromica, thạch anh, mica trắng, cao lanh, một lượng ít oxit sắt và các chất hữu cơ.
Sự khác biệt lớn nhất giữa lục nê và hồng nê, tử nê là trong quặng lục nê chứa rất ít sắt, và sắt tồn tại ở trạng thái ion, nên quặng mới có màu xanh lục. Hàm lượng Titan trong lục nê khá cao, nên sau khi nung nó có màu vàng sữa.
Lục nê được chia làm tầng đất sát và tầng đất kẹp, cũng được chia làm lục nê nhạt, đậm, thanh, xám, mặc. Nếu tầng quặng sát bên dưới lớp Quartzit (Long Cốt) thì hàm lượng thạch anh khá nhiều, thành phần kết dính ít, tính thấu khí cực kỳ tốt, nhưng nhiệt độ thiêu kết khá cao, dễ nứt, tỷ lệ thành phẩm thấp. Nếu quặng kẹp giữa lớp tử nê (nê trung nê) thì hàm lượng thạch anh khá ít, thành phần kết dính nhiều, tính thấu khí khá kém nhưng nhiệt độ thiêu kết thấp, không dễ bị nứt, tỷ lệ thành phẩm cao.
Do số lượng không nhiều, sản phẩm lục nê lớn không dễ nung, vì vậy phần nhiều lục nê được dùng để làm những sản phẩm nhỏ. Nếu trộn thêm màu có thể dùng làm loại đất trang trí, phần lớn dùng để trang trí lên bề mặt phôi tử nê.
Một số loại Lục Nê tiêu biểu: Bổn Sơn Lục Nê, Chi Ma Lục Nê, Mạc Lục Nê.
4. Đoạn Nê
Đoạn Nê, hay có tên khác là Đoàn Nê, bởi lẽ có một ngọn núi nhỏ ở Hoàng Long Sơn tên là “Đoàn Sơn”, và loại đất được tìm thấy ở ngọn núi này, được gọi là “đất Đoàn Sơn”.
Do ảnh hưởng của điều kiện địa chất và điều kiện hình thành quặng, Đoạn Nê ở những khu vực quặng khác nhau, lớp quặng khác nhau sẽ có phẩm chất và tính chất khác nhau. Sự khác nhau trong tỷ lệ đất, nhiệt độ nung và số lần nung sẽ khiến màu sắc của thành phẩm khác nhau. Các tác phẩm đoạn nê khó nung, nếu nung không đạt, sẽ dễ nứt hoặc khó mang lại màu sắc đẹp.
Nhiệt độ nung của đoạn nê thường cao hơn hồng nê và thấp hơn tử nê, rơi vào 1170~1200 độ C. Hàm lượng sắt trong đoạn nê thấp, thường khoảng 2%. Nếu sắt cao hơn 2% thì màu sẽ vàng đậm hơn.
Màu sắc sau nung của đoạn nê biến đổi từ màu vàng nhạt sang màu vàng đỏ, vàng đậm, nâu vàng. Đoạn nê nhóm bạch nê vì có lượng sắt thấp nên nung ra có màu xám trắng, có chiều hướng thay đổi sang màu xám, màu xám ánh xanh; những loại đất như mễ hoàng đoạn hay bổn sơn lục (cũng thuộc nhóm bạch nê này) vì hàm lượng sắt phù hợp nên màu sau nung là màu vàng nhạt, chiều hướng thay đổi là vàng nhạt – vàng – vàng đậm – vàng ánh xanh; một số loại đất đoạn nê trong nhóm cộng sinh vì khá gần tầng tử nê, thậm chí xuất hiện rải rác trong lớp tử nê, nên chịu ảnh hưởng sâu sắc của tầng đất tử nê, lượng sắt khá cao, màu sắc sau nung có thể ánh hồng nhạt, thay đổi sang màu nâu, màu nâu vàng, người ta cũng gọi đây là lão đoạn nê.
5. Giáng ba nê
Giáng ba nê( Giáng ba tiếng Hán nghĩa là hạ dốc), trong khoảng đầu những năm 1990 của thế kỷ trước, trong lúc Chính phủ Nghi Hưng cho mở con đường “Gốm đô” thông từ Đinh Sơn đến Nghi Hưng thì ngẫu nhiên phát hiện được trên triền dốc liên kết Hoàng Long Sơn và Thanh Long Sơn có một bộ phận nhỏ tử sa nguyên khoáng, vì vậy loại tử sa này được đặt tên là Giáng Ba Nê. Sau đó không còn khai thác được ở chỗ nào khác nữa mà chỉ còn tồn lượng khai thác được trong mỏ dốc này.
Đặc tính:
1. Nhiệt độ nung khoảng 1180 độ C
2. Nguyên khoáng Giáng ba nê do nằm giữa Hoàng Long Sơn và Thanh Long Sơn nên thành phần có sự cộng sinh của nguyên khoáng đoạn nê, hồng nê, tử nê, có màu cam đỏ, và những điểm vàng xen kẽ.
3. Đặc tính: Giáng ba nê tính sa rất mạnh, nhưng lại chất phác như người nông dân, càng dùng càng lộ độ mạnh mẽ, sắc sảo của mình. Sự thay đổi trong quá trình sử dụng là rất lớn, dùng lâu vô cùng đẹp. Vì vậy là loại đất được những nhà sưu tầm ấm những năm 90 đến những năm 2000 vô cùng yêu thích. Đến nay thì số lượng Giáng ba nê nguyên khoáng không còn nhiều, những ấm bán trên thị trường phần nhiều là có pha trộn với tử sa vùng núi khác
4. Giáng ba nê có tính thẩm thấu khí cao, thuộc loại ấm Trung dung, uống được nhiều dòng trà. Tuy nhiên theo kinh nghiệm thì uống Nham trà(trà núi đá Vũ Di Sơn) sẽ cho hương và vị hoàn hảo nhất.
Ứng dụng của Đất Tử Sa
Với khả năng tạo hình đa dạng và tính chất sau khi nung xong hết sức độc đáo, nên Tử sa được ứng dụng nhiều lĩnh vực trong đời sống, nhất là các lĩnh vực liên quan đến nghệ thuật. Làm ấm trà, làm lý uống nước, làm chậu cây, làm tượng, làm phù điêu, lu hũ đựng nước,….
Ngoài khả năng tạo hình nghệ thuật độc đáo không giới hạn, đa dạng màu sắc, độ quý hiếm của nguồn nguyên liệu thì các ấm trà được làm bằng đất Tử sa luôn pha ra nước trà ngon hơn hẳn các ấm trà bằng chất liệu khác. Điều này đã được tất cả các người uống trà từ sành sỏi đến nghiệp dư phải công nhận. Trà và Tử sa là một sự kết hợp hoàn hảo, Trà đưa Tử sa lên thành nghệ thuật đỉnh cao, Tử sa giúp phát huy hết tinh túy của Trà.