Tết Nguyên Đán là dịp lễ cổ truyền lớn nhất trong văn hóa của người Việt đồng thời chứa đựng nhiều yếu tố cổ truyền ý nghĩa. Những hình ảnh quen thuộc đã gắn liền trong tâm trí mỗi người dẫu qua bao nhiêu cái Tết như: bánh chưng, hoa đào, phong bao lì xì,… đã trở thành những hình ảnh không thể thiếu mỗi dịp Tết đến xuân về. Thế nhưng, có lẽ không phải ai cũng hiểu được hết ý nghĩa của những biểu tượng trên. Vậy hôm nay hãy cùng đọc bài viết của Bạch Liên dưới đây để hiểu thêm về ý nghĩa của những biểu tượng này trong văn hóa ngày Tết cổ truyền Việt Nam nhé.
1. Biểu tượng cổ truyền ngày Tết: Bánh chưng
Có thể nói đã là người Việt thì dù có đi đâu, ai ai cũng không bao giờ thiếu bánh chưng trong mâm cỗ Tết cổ truyền. Chẳng biết tự bao giờ nhưng trong tâm thức người Việt, bánh chưng đã trở thành một biểu tượng cho truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. Chắc hẳn hai từ bánh chưng đã rất quen thuộc với mọi người Việt Nam mỗi dịp Tết đến. Theo quan niệm xa xưa, bánh chưng cũng là vật tượng chưng cho đất, bánh chưng xuất hiện vào ngày Tết để thể hiện sự biết ơn trời đất đã cho mưa thuận gió hòa, để mùa màng bội thu đem lại cuộc sống ấm no cho con người. Chính vì thế nên trên bàn thờ tổ tiên của mỗi gia đình Việt không thể thiếu được cặp bánh chưng xanh. Bánh được làm từ loại gạo nếp ngon, thịt lợn, đậu xanh và được gói vuông văn bằng lá dong sau đó được đem luộc trong khảng 8 – 10giờ cho đến khi chín. Bánh dẻo, rất thơm mùi thơm của gạo nếp và có màu xanh của lá dong.
Dù là tự tay gói bánh, mua sẵn hay được biếu tặng thì bánh chưng xanh cũng luôn là một món không thể thiếu của mọi nhà từ mâm cỗ cúng đến . Ở miền Bắc từ khoảng giữa tháng Chạp nhiều nhà đã chuẩn bị đậu xanh, lá dong, gạo nếp, ống giang chẻ lạt gói bánh chưng. Ai nấy đều cố gắng chuẩn bị những nguyên liệu tốt nhất để bánh chưng nhà mình Tết đó được thơm ngon nhất. Bánh chưng không chỉ là một món ăn truyền thống ngày Tết Việt Nam mà đó còn là một dịp để gia đình sum họp, quây quần bên bếp lửa hồng. Bên nồi bánh chưng ấm áp các thế hệ trong gia đình kể cho nhau nghe về những điều đã qua, những dự định tương lai và bao câu chuyện khác.
2. Biểu tượng cổ truyền ngày Tết: Phong bao lì xì
Lì xì đầu năm vốn tồn tại từ lâu, nguồn gốc của phong tục này cũng được thêu dệt ra khá nhiều câu chuyện. Có chuyện kể rằng ngày xưa, ở Đông Hải có rất nhiều yêu quái thường xuyên gây hại bá tánh, song những ngày thường chúng luôn bị các thần tiên ở hạ giới canh giữ. Tuy nhiên, hàng năm các vị thần tiên đều phải về trời vào thời điểm giao thừa. Lúc này, yêu quái lộng hành quấy rối trẻ em đang ngủ, khiến trẻ thường giật mình khóc thét và bị sốt, nên bố mẹ thường không dám ngủ để thức canh con trẻ. Một lần có 8 vị tiên đi ngang nhà kia thấy vậy liền hóa thành những đồng tiền nằm bên chỗ mấy đứa trẻ, cha mẹ chúng đem gói những đồng tiền này vào tấm vải đỏ để xua đuổi yêu quái. Phép lạ này nhanh chóng lan truyền ra khắp nhân gian, nên khi Tết đến, người ta lại bỏ tiền vào trong những cái túi màu đỏ tặng trẻ con, để trẻ chóng lớn và khỏe mạnh hơn, từ đó trở thành tục lì xì đầu năm như hiện nay.
Phong bao lì xì mang rất nhiều ý nghĩa sâu xa và tốt đẹp. Phong bao là tượng trưng cho sự kín đáo, không so bì hơn thua, để tránh dẫn đến những xích mích không đáng có. Màu đỏ của chiếc bao lì xì tượng trưng cho màu như ý, cát tường, thịnh vượng trong suốt cả năm. Ngoài ra, đó cũng được coi là màu của niềm hy vọng và sự may mắn. Người được nhận lì xì luôn tin rằng những phong bao này sẽ đem lại hạnh phúc và tài lộc trong suốt cả năm. Cứ vào mỗi sáng mùng 1, sau khi dậy sớm và diện những bộ quần áo đẹp, người lớn và trẻ con lần lượt ra chúc tết, chúc thọ và biếu lì xì cho ông bà, bố mẹ. Sau đó, người lớn sẽ tặng cho những đứa trẻ những chiếc bao lì xì đựng tiền cùng với lời chúc mong muốn sự hạnh phúc và tất cả những gì tốt đẹp nhất sẽ đến với người thân của mình trong suốt một năm.
3. Biểu tượng cổ truyền ngày Tết: Ô mai
Trong văn hoá của người Việt, ô mai thường mang ý nghĩa sum vầy. Bởi vậy trong các ngày lễ đặc biệt, đặc biệt là Tết người ta vẫn hay chọn ô mai làm quà để trao nhau những tình cảm, lời cảm ơn chân thành. Ô mai là món quà quý để các gia đình dâng lên thờ cúng gia tiên, gửi gắm tấm trân tình của những người con, người cháu hiếu thảo.
Giữa vô vàn các loại bánh kẹo, ô mai vẫn luôn là thức quà truyền thống không thể thiếu trên bàn trà đoàn viên mỗi dịp Tết đến Xuân về. Nhấp ngụm trà nóng, nhâm nhi ô mai cùng kể nhau nghe những câu chuyện buồn vui trong cuộc sống sau một năm dài xa cách, cứ thế câu chuyện ngày Tết trở nên rôm rả và ấm áp vô cùng.
4. Biểu tượng cổ truyền ngày Tết: Hoa Tết
Mùa xuân là mùa cỏ cây đâm chồi nảy lộc, vì vậy chẳng lạ khi dịp Tết đến xuân về, trong những ngày vui như thế, ai ai cũng muốn trang trí trong nhà đủ loại cây, hoa. Hoa Tết nhiều vô kể với đủ loại như Lay ơn, vạn thọ, cúc, hồng… nhưng cây, hoa đặc trưng thì chỉ gói gọn trong 2 thứ đó là Đào hồng miền Bắc và mai vàng miền Nam. Đối với người miền Bắc, nhắc đến Tết là người ta sẽ nghĩ ngay đến hoa đào – loài hoa chỉ nở vào mùa Xuân, để phục vụ Tết Nguyên Đán. Trong tâm linh, ngày xưa, để ma quỷ không đến quấy phá cuộc sống, người dân đã nghĩ ra một cách là đi bẻ cành đào về cắm trong lọ. Theo đó, chỉ cần nhìn thấy cành đào thì lũ quỷ sẽ chạy xa, không đến gần nhà đó nữa. Ngoài ra, hoa đào còn là biểu tượng cho sự đổi mới, sự sinh sôi, phát triển mạnh mẽ, nó có thể mang đến nguồn sinh khí mới, giúp mọi người trong nhà luôn khỏe mạnh, bình an và vạn sự như ý trong năm mới.
Miền Bắc có hoà đào thì miền Nam có hoa mai. Màu vàng của hoa mai từ lâu được xem là màu tượng trưng cho sự giàu sang, phú quý. Người ta chưng hoa mai vào dịp Tết với mong muốn một năm mới phát tài, giàu sang. Theo quan niệm của nhiều người, nhà nào có hoa mai nở càng nhiều cánh thì nhà đó càng may mắn và sung túc trong năm mới. Cây mai có rễ cắm sâu vào lòng đất, không bị gục ngã trước gió bão. Nó cũng có thể chịu đựng được mọi loại thời tiết, kể cả khắc nghiệt. Bởi vậy mà mai còn tượng trưng cho phẩm đức nhẫn nại và đức hy sinh cao cả, sự bền bỉ của người Việt Nam nói chung. Bên cạnh đó, mai còn là biểu tượng cho sự cao thượng, quyền quý.
5. Biểu tượng cổ truyền ngày Tết: Mứt Tết
Từ xưa đến nay, mứt Tết được xem là một trong những thức quà quý của người Việt trong mỗi dịp Tết đến xuân về. Mứt Tết được bày biện trang trọng trên ban thờ thể hiện tấm lòng thơm thảo của bậc con cháu dâng lên ông bà tổ tiên. Trên bàn trà đoàn viên ngày Tết, mứt Tết là cầu nối giúp câu chuyện ngày Tết thêm đậm đà hương vị yêu thương. Thấy Mứt là thấy Tết.
6. Biểu tượng cổ truyền ngày Tết: Cây nêu
Từ bao đời nay, hình ảnh cây nêu là biểu tượng thiêng liêng, thân thuộc của dân tộc Việt Nam trong dịp Tết cổ truyền. Cây nêu thường được dựng lên từ thân tre cao, dài. Tùy vào văn hóa của từng vùng, người ta sẽ treo lên đó những vật trang trí mang ý nghĩa khác nhau, có thể là chuông, bùa trừ tà, cá chép giấy, hoặc bình rượu, đèn lồng… Người dân quan niệm rằng ánh sáng đèn lồng trong sẽ dẫn đường cho Tổ tiên về vui Tết với con cháu, còn chuông, bùa sẽ khiến cho ma quỷ khiếp sợ, không dám quấy nhiễu gia chủ. Riêng đối với dân tộc thiểu số, cây nêu loại này xuất hiện ở những vùng rẫy thuộc sở hữu cá nhân chưa khai hoang. Người chủ rẫy tìm bốn cây cao to, chặt đứt ngang thân, dựng ở bốn góc rẫy như bốn cái trụ và gọi đó là cây nêu.
Cây nêu ở đây là cây tre dài khoảng 5 – 6 mét, được dựng trước sân nhà vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch, là ngày Táo quân chầu Trời. Cây nêu phải làm bằng cây tre vì tre có đốt, là bậc thang đi về của thần linh, mang sinh khí của trời chuyển xuống mặt đất giúp mặt đất phì nhiêu, hội tụ sinh khí giúp mùa màng tốt tươi. Tre phải là loại tre già, to, thẳng, không được cụt ngọn. Thân cây có thể được trang trí bằng các loại cờ, phướn, đèn lồng, câu đối, niêu đất chứa vôi, chuông gió. Bên dưới gốc, rắc bột vôi trắng tạo thành vòng tròn hoặc rắc hình cánh cung, mũi tên hướng ra phía cổng để xua đuổi tà ma. Gần đây, phong tục trồng cây nêu ngày Tết đã dần ít phổ biến trong cộng đồng người Việt Nam thời hiện đại, và được thay thế với tục chơi cành hoa đào, hoa mai ngày Tết.
7. Biểu tượng cổ truyền ngày Tết: Câu đối Tết
Treo câu đối Tết trong nhà từ lâu đã trở thành nét đẹp trong văn hóa của người Việt. Tết đến là lúc người người nhà nhà sắm sửa, trang hoàng đôi ba câu đối đỏ trong nhà. Tượng trưng cho may mắn, cát tường và thành công trong năm mới. Không những thế, chơi câu đối Tết còn là thú vui tao nhã của nhiều người. Thể hiện trí tuệ và nghệ thuật chơi chữ của người sử dụng câu đối. Đây được đánh giá như tinh hoa của nguồn cội, là món ăn tinh thần ngày Tết. Ngày Tết, người Việt xưa thường có thói quen mua và xin câu đối đỏ để treo trong nhà. Đó là những câu thơ đối vần, đối nghĩa được viết trên giấy màu hồng đào hoặc màu đỏ. Theo quan niệm của người Việt ngày xưa, màu đỏ là màu rực rỡ, từng câu chữ được viết trên giấy đều là những lời chúc, lời cầu mong ý nghĩa nhất. Làm thành những bài học giáo dục sâu sắc, hướng con người đến vẻ đẹp chân-thiện-mỹ.
Ông bà ta vẫn có câu “Bánh chưng xanh, thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ”. Phong tục treo tranh, câu đố Tết bắt nguồn từ thú vui tao nhã của các nhà nho thời phong kiến trước đây. Vừa là để trang hoàng nhà cửa, cũng một phần để thể hiện cái “tài” của mình. Dần dần thú vui này trở nên phổ biến, trở thành tập quán chung của người Việt trong dịp Tết. Tranh Tết khá đa dạng, thường là tranh dân gian như mâm ngũ quả, hoặc tranh Đông Hồ, cũng có thể là tranh chữ như Tâm, Phúc, Đức… Người ta cũng có thói quen khai bút hoặc xin chữ từ các Ông đồ để lấy may mắn trong năm mới. Cùng với tranh treo, câu đối, hình ảnh Ông đồ “Bày mực tàu, giấy đỏ…” cũng trở nên thân thuộc trong văn hóa nước ta.